phát triển bản thân; kỹ năng mềm; tâm lý học; học tiếng Anh; phát âm; phiên âm; IPA; nối âm; phụ âm; nguyên âm; tự học; lỗi phát âm; giao tiếp; người mới bắt đầu; accent; tiếng Anh bồi.
Học đọc phiên âm là nền tảng: Thay vì chỉ bắt chước người bản xứ (vì họ có nhiều giọng và cách nói khác nhau), việc biết đọc phiên âm (IPA) trong từ điển giúp bạn nắm được cách phát âm chuẩn và chính xác của một từ.
Phát âm đủ âm là chìa khóa: Lỗi phổ biến nhất của người Việt là bỏ âm cuối hoặc âm giữa. Học phiên âm giúp bạn nhận biết tất cả các âm cấu thành một từ và đảm bảo bạn không bỏ sót âm nào.
Âm bật hơi tạo sự khác biệt: Các âm như /p/, /t/, /k/ cần được bật hơi, khác với âm "pờ", "tờ", "cờ" trong tiếng Việt. Nắm vững điều này sẽ giúp tiếng Anh của bạn nghe chuyên nghiệp và "Tây" hơn rất nhiều.
Nối âm là một quá trình tự nhiên: Đừng cố tình nối các từ lại với nhau. Bí quyết để nối âm tự nhiên là phát âm đủ tất cả các âm của một từ (đặc biệt là âm cuối) và nói với tốc độ bình thường, việc nối âm sẽ tự động xảy ra.
Đừng nhầm lẫn giữa cách dạy và cách nói thực tế: Các giáo viên phát âm thường phóng đại các âm để học viên nghe rõ. Khi đã nắm được cách phát âm đúng, hãy nói một cách tự nhiên như khi nói tiếng Việt, đừng cố nhấn nhá một cách cứng nhắc.
Luyện tập với bài hát chậm: Hát theo các bài hát có tiết tấu chậm như của Adele hay Ed Sheeran là một cách hiệu quả để luyện phát âm chuẩn và cảm nhận cách nối âm tự nhiên.
Trước đây, bạn học phát âm bằng cách bắt chước hay học phiên âm? Sau khi xem video, bạn nghĩ phương pháp nào hiệu quả hơn đối với bản thân và tại sao?
Lỗi phát âm nào được đề cập trong video mà bạn thường mắc phải nhất (ví dụ: bỏ âm cuối, không bật hơi, nhầm lẫn nguyên âm)? Bạn sẽ áp dụng kiến thức về phiên âm để sửa lỗi đó như thế nào?
Bạn có từng cố gắng "ép" mình phải nối âm khi nói và cảm thấy không tự nhiên không? Bạn nghĩ sao về quan điểm "nối âm là kết quả tự động của việc phát âm đủ âm"?
Hãy chọn một đoạn lời bài hát tiếng Anh bạn yêu thích, tra phiên âm của từng từ và thử đọc chậm rãi, sau đó tăng dần tốc độ. Bạn có nhận thấy sự khác biệt nào trong cách phát âm và sự liền mạch của câu không?
Video đã chỉ ra rất nhiều từ người Việt hay phát âm sai (comfortable, island, chocolate...). Ngoài những từ này, bạn còn biết những từ nào khác mà bạn hoặc mọi người xung quanh thường phát âm chưa chính xác?
Tại Sao Phải Học Đọc Phiên Âm?
Ừ nếu có thể phát âm đúng bất cứ từ nào thì chúng ta phải biết cách đọc phiên âm của từ đó trong từ điển Anh-Anh. Tại sao lại phải học đọc phiên âm thay vì cứ nghe cách người bản xứ phát âm rồi chúng ta nhại lại? Lý do là bởi âm thanh chúng ta nghe được từ người bản xứ không phải lúc nào cũng là cách phát âm đúng của một từ.
Trong tiếng Việt, cùng là một từ "cá" thôi nhưng người thì phát âm là "cá", người thì phát âm là "ké", nhưng trong đầu cả hai người họ đều nghĩ là mình đang phát âm cùng một từ được viết là "cờ a ca sắc cá". Người bản xứ cũng vậy, cùng một từ "water", người thì phát âm là "water", người thì phát âm là "wadder", thậm chí có người còn phát âm là "wa'er", nhưng trong khi nói thì họ luôn nghĩ là mình đã nói "water".
Vì vậy nếu bạn không biết cách một từ được phát âm chính xác và chuẩn nghe như thế nào, thì cứ mỗi lần bạn gặp người bản xứ bạn lại cố nhại lại họ thì có lẽ bạn sẽ học được nhiều cách phát âm khác nhau cho cùng một từ mất. Nhưng ngược lại, nếu bạn biết cách đọc phiên âm tiếng Anh thì bạn sẽ biết là một từ đó gồm những âm gì và bạn sẽ biết cách phát âm đúng của từ đó như thế nào. Để rồi sau khi đã dùng tiếng Anh một cách tự nhiên hơn thì kể cả bạn có phát âm trệch đi nhưng khi chúng ta phát âm đều ấy thì người bản xứ cũng vẫn hiểu.
Cách phát âm của một từ trong tiếng Anh thì rất giống với tiếng Việt, nên một khi đọc được phiên âm để biết một từ có những âm gì, khi ghép âm nó lại ta sẽ có phát âm của một từ. Để dễ hiểu hơn, chúng ta sẽ tra từ điển Anh-Anh trên mạng và nhìn vào phiên âm tiếng Anh của nó nhé.
Bảng Phiên Âm Tiếng Anh (IPA)
Cũng như tiếng Việt thì tiếng Anh cũng có phụ âm và nguyên âm. Nhìn vào đây thì có thể có nhiều bạn sẽ cảm thấy bị ngợp, tuy nhiên những chữ này thì chả hiểu gì nhưng đừng sợ. Có rất nhiều âm trong tiếng Anh giống với cả âm trong tiếng Việt của mình và điều này là một lợi thế của người Việt khi học phát âm tiếng Anh so với những người từ những nơi khác.
Ví dụ như người Hàn thì thường phát âm âm L và âm R giống nhau. Giống như trong bài hát Roly Poly của nhóm T-ara, theo tên và lời bài hát thì đáng nhẽ phải hát là "Roly Poly" nhưng họ hát thành "Roly Poly". Người Trung thì âm "th" trong "thank you" hay "thanks", họ thường gặp khó khăn để điều chỉnh ngay cả khi được chỉ dẫn.
Thôi không đi lan man trọng tâm nữa, chúng ta hãy cùng học cách dùng bảng phiên âm này nhá.
Hướng Dẫn Phát Âm Phụ Âm (Consonants)
Chúng ta sẽ cùng học phát âm phụ âm trước.
Âm /p/: Âm đầu tiên là âm /p/, thường có trong từ "pen", "ping pong". Âm /p/ này thì cách đặt môi và lưỡi giống với âm "pờ" của mình, nhưng thay vì âm trong tiếng Việt trong từ "ngầu tín" hay "Chi Pu" thì chúng ta phát âm bật hơi ra: pen, ping pong.
Âm /b/: Tiếp theo của âm này thì giống hệt âm "bờ" của tiếng Việt: ball, band, smart.
Âm /t/: Tiếp theo của âm /t/. Âm /t/ này thì khi đặt môi và lưỡi thì chúng ta cần phải có răng. Khác này, lưỡi thẳng và đầu lưỡi chặn ở răng cửa trên, chân răng. Âm /t/ này thì đọc giống trong từ "sunrise", "city", "house", "see", "pants".
Âm /d/: Tiếp theo là âm /d/. Âm /d/ này thì có 2 cách phát âm chính.
Một là khi nó đứng cuối một từ thì phát âm giống âm "đờ" của tiếng Việt. Ví dụ: "need". Mình cố tình phát âm gió để các bạn biết là có âm /d/ ở đấy thôi chứ bình thường người ta chỉ nói "need". Đây cũng là cách mà những thầy giáo bản xứ dạy phát âm, người ta cố tình phát âm một cách phóng đại lên để bạn nghe được rõ và đủ âm của một từ. Nhưng nhiều người khi học lại nghĩ rằng bình thường cũng phải nói giống như thế, thế là lúc thực hành các bạn nói tiếng Anh nghe khá là cứng nhắc. Các bạn chỉ cần học phát âm từ đúng và đủ như thế nào, sau đó hãy cứ nói tiếng Anh như bạn bình thường nói tiếng Việt vậy, đừng cố nhấn nhá một cách không tự nhiên nhé.
Cách phát âm thứ hai của âm /d/ này thì là khi nó đứng đầu của một từ, phát âm pha giữa âm "tr" và âm "đờ" thành /dr/. Ví dụ: "draw", "drive".
Âm /dʒ/: Âm thứ hai thì có cách đặt lưỡi và khẩu hình giống âm /tʃ/ và có thể xem clip mình giới thiệu ở góc màn hình. Để ý là khi mình phát âm từ "Chào", mình có âm /tʃ/: "Chào". Rất nhiều bạn đọc từ này là "đeo" và thiếu hẳn âm /dʒ/ ở đó. Đó cũng là một trong những lỗi phát âm phổ biến nhất của người Việt: phát âm không đủ âm, đa phần là thiếu âm cuối, đôi khi là thiếu âm giữa. Dù là gì thì các bạn cũng phải tránh những lỗi này nhá. Một khi đã học được cách đọc phiên âm rồi thì các bạn sẽ biết là một từ có những âm gì và khi phát âm bạn phải phát âm đủ những âm đó.
Lưu ý về /t/ và /d/: Một lưu ý nhỏ khi phát âm âm /d/ và âm /t/ này là trong thực tế sử dụng, nhiều khi người ta hay phát âm /d/ thay vì /t/ khi âm /t/ ở giữa từ. Ví dụ "portable", đúng theo phiên âm thì phải là "portable", nhưng trong thực tế người ta hay nói là "portable". "Healthy" của vợ, đúng phiên âm thì phải là "healthy", nhưng văn nói thì sẽ phát âm thành âm /d/ "healthy" để nói cho dễ.
Âm /k/ và /g/: Âm tiếp theo, hai âm này thì phát âm giống như "cờ" nhưng bật hơi ra: "car", "key". "Desk" chứ không phải là "đét". "Cờ" những người hay nói tiếng Anh bồi thì thường sẽ không có thói quen đọc âm bật hơi này, họ luôn cố đổi âm tiếng Anh sang âm tiếng Việt để nói cho dễ. Vì vậy việc bạn đọc những âm tiếng Anh mà không có trong tiếng Việt này một cách bài bản thì sẽ giúp cho việc nói tiếng Anh của bạn nghe sẽ chuyên nghiệp hơn rất là nhiều. Cố gắng này nhá.
Âm tiếp theo là âm /g/. Âm /g/ này thì giống hệt âm "g" trong "gò má", "game thủ" của mình: "get", "back". Nhớ để ý là âm /g/ cuối nhé, đừng đọc thành "béc" mà phải là "back". Trong thực tế nói thì các bạn sẽ khó có thể nghe rõ được nhiều âm cuối như vậy vì họ nói nhanh và nhẹ. Ví dụ như vậy "back", nhưng trong đầu họ và miệng họ thực sự là đã phát âm /g/ âm cuối /g/, chỉ là bạn không nghe thấy thôi. Vì vậy nếu không biết từ gì thì hãy tra phiên âm chứ đừng vội tin vào những gì bạn nghe được nhá.
Âm /tʃ/ và /dʒ/:
Âm tiếp theo là một âm trông thì giống chữ /t/ và chữ "s" kéo dài xuống. Tưởng là một âm lạ nhưng thực ra nó được phát âm giống hệt "trờ" nhẹ trong tiếng Việt, chỉ là viết khác đi thôi: "chair", "match".
Âm tiếp theo viết giống /d/ và số 3, đọc giống hệt "giờ" nặng trong "gió đã" của tiếng Việt: "June", "age". Nhớ là "giờ" nặng nhá, chứ không phải là "giờ" nhẹ nhá, đừng đọc thành "run" hay là "hay".
Âm /f/ và /v/:
Âm tiếp theo nhá, đọc giống "phờ" trong "phở" tiếng Việt: "fall", "safe". Đừng quên âm cuối /f/ nhá, "safe".
Âm tiếp theo /v/, đọc giống hệt "vờ" trong "vui vẻ" của mình: "voice", "which", "have". Nhiều bạn không đọc âm cuối /v/ của từ "have" nên toàn thành "hét", mà nó cũng không nên đọc là "háp" mà đọc là "have". Còn trong thực tế nói thì tùy vào ngữ cảnh và tâm trạng mà bạn có thể sẽ nghe người ta phát âm khác. Ví dụ khi họ đang lưỡng lự chọn thứ gì đó, họ có thể sẽ nói: "Let me have...", "Let me know". Bạn phải học phát âm chuẩn trước rồi mới biến tấu tùy tình huống sau.
Âm /z/ và /s/:
Âm tiếp theo /z/, âm /z/ này thì giống âm "giờ" "đờ" của mình: "rose", "zip". Nhớ đọc là "rose" chứ không đọc là "râu" nhá.
Âm tiếp theo là âm viết giống chữ "s" kéo dài, đọc là /ʃ/ giống như khi ta muốn ai đó im lặng vậy: "she", "wash".
Âm /ʒ/: Âm tiếp theo, viết giống số 3, đọc là /ʒ/ giống "trờ" nặng, giống "cơn gió". Âm này thì thường đứng ở giữa từ: "measure", "vision".
Âm /h/, /m/, /n/:
Âm tiếp theo /h/, giống "hờ" hò của mình: "house", "hotel".
Âm /m/, giống "mờ" của mình: "man", "some".
Âm /n/, giống "nờ" của mình: "now", "know", "Martin".
Mẹo cho từ "know": Có một tip nhỏ cho các bạn khi phát âm từ "know" này mà mình tự nghĩ ra. Nếu các bạn bám đúng vào phiên âm của từ "know" thì có lẽ các bạn sẽ phát âm giống với khi bạn phát âm "nâu" trong tiếng Việt: "nâu", "nâu". Nghe vẫn thấy khác so với khi người bản xứ phát âm dù đã đúng phiên âm. Nhìn vào phiên âm thì các bạn thấy chúng ta có 2 âm chính là âm /n/ và /əʊ/, đọc nhanh thành "nəʊ". Bây giờ để phát âm từ này giống với cách người bản xứ phát âm thì ta thêm chữ "ờ" vào sau /n/. /n/ thì thành "nờ", giống như khi mà mình phát âm nhưng mà bằng giọng miền Nam. Thêm /əʊ/ vào cuối nữa thì thành "nờ-əʊ", đọc nhanh thành "nəʊ". Nghe khác hẳn đúng không? Một bên là "nâu", một bên là "nəʊ", nghe hay hơn rồi đấy ạ. Nhưng đừng đọc nặng quá âm "ờ" nhé, bởi vì bản thân từ "know" này thì không có "ờ", mình chỉ hơi cong lưỡi lên một chút thôi để nghe giống như người bản xứ nói: "nəʊ".
Âm /ŋ/: Âm tiếp theo là âm /ŋ/, viết giống kết hợp của chữ n và chữ g, đọc là "ngờ": "singer", "thing". Nhớ nhá, "singer" thì là "ngờ", còn "single" (độc thân) thì là /g/: "single", "singer".
Âm /l/: Âm tiếp theo là /l/: "last". Nhớ có chữ /l/ cuối nhá, không đọc là "lát". "Metal". Mình không biết là trong audio thì có các bạn có nghe được âm /l/ ở cuối không, nhưng mà khi mà mình phát âm ra thì lưỡi của mình có cong lên ở cuối thì âm /l/ đó. Rất nhiều bạn đọc cái âm /l/ cuối này thì thường bị nặng quá, tức là các bạn uốn lưỡi ngay từ đầu và phát âm "metal". Khi mà đọc như vậy thì cái âm /l/ đó nó rất là nặng và nó nghe nó không tự nhiên và khi mà phát âm thì nó cũng khó ra và mình cũng không thể nói nhanh được với kiểu phát âm như vậy. Vì vậy cách phát âm đúng và dễ cho các bạn đó là các bạn khi đọc "metal" không có /l/ trước, trước khi bạn kết thúc cái âm đó thì bạn chỉ cần cong lưỡi nhẹ lên bên trên là được: "metal", "metal".
Trong thực tế sử dụng, nếu mà không có một âm nào đó đằng sau để nối âm vào, các bạn hầu như sẽ không nghe được những âm /l/ này ở cuối. Một số trường hợp thì các bạn có thể nghe rõ sự khác biệt giữa có âm /l/ và không có âm /l/. Ví dụ như từ "mỉm cười": "smile", "smile". Các bạn để ý âm "ồ" ở cuối "smile", đó là bởi vì mình có uốn lưỡi lên thì âm mình phát ra nó thành "ồ", nó khác hẳn với cả "smai", "smai" không có âm /l/. Vì vậy không quan trọng trong khi nghe người bản xứ nói bạn có nghe được âm cuối hay không, chỉ cần biết là trong phiên âm có âm đó thì bạn phải đọc âm đó. Chỉ cần nhớ là cái âm /l/ này đừng đọc nặng quá là được, đừng uốn lưỡi ngay từ đầu.
Âm /r/: Âm tiếp theo "road", "write". Nhẹ nó không nhất thiết là phải có như vậy. Âm "rờ" như bình thường như trong "nói" của mình. "Train", cũng đừng đọc thành "giờ" là chỉ là "rờ". "Red" hoặc là "train", "changes".
Âm /w/: Âm tiếp theo /w/ thì đọc giống như "quờ" nặng của mình nên...
Âm /ð/ và /θ/: Âm tiếp theo /ð/ và /θ/. Hai này thì nó hơi đặc biệt một chút và hơi phức tạp một chút thì lát nữa mình sẽ nói bên dưới.
Âm /w/ thì đọc giống "quờ" "quờ" của mình: "with", "why", "when", "one", "queen".
Âm /ð/: Âm "giờ" này thì viết giống chữ "đ" nhưng mà cái đầu của nó nó hơi nghiêng về phía bên trái một chút thì đọc là /ð/. Để phát âm được âm /ð/ thì bạn cần phải đặt lưỡi giữa hai răng, sau đó là bạn rung lưỡi kết hợp với cả nguyên âm đằng sau và các bạn sẽ có âm /ð/: "the", "this", "that". Và cái phụ âm /ð/ này thì cũng sẽ xuất hiện ở trong "with", "these", "that", "those" là những từ rất là phổ biến nên là các bạn cần chú ý đọc cái âm này cho thật đúng đắn.
Âm /θ/: Tiếp theo là phụ âm /θ/. Phụ âm này thì nếu mà trong đúng từ điển thì sẽ viết là giống số 0 cộng thêm một cái gạch ngang ở giữa. Âm /θ/ này cũng là đặt lưỡi giữa hai răng nhưng thay vì mình rung lưỡi thì mình phả hơi ra: /θ/. Âm /θ/ này thì có trong "thank", "think", "everything", "I think". Và âm /θ/ này cũng có thể xuất hiện ở cuối của một từ, ví dụ như "bath". Hai âm /ð/ và /θ/ này là hai âm không có trong tiếng Việt, vì vậy là nhiều bạn gặp khó khăn trong cái cách phát âm của hai âm này.
Âm /s/: Cuối cùng là phụ âm /s/, giống "xì" của mình: "see", "say", "house".
Âm /j/: Rồi bây giờ chúng ta sẽ tới với phụ âm /j/. Phụ âm /j/ thì chúng ta phát âm bình thường như "giờ" "giọt", giống như các bạn miền Nam hay nói là "mấy giờ rồi đó", "mấy giờ", thì cái âm "giờ" đó chính là cái âm /j/ khi mà nó đứng trước các nguyên âm khác, ví dụ như "a", "i", "o", "u": "your", "your", "year", "yes", "yesterday", "use", "for you", "you", "use". Nếu mà nó đứng trước các nguyên âm khác thì phần còn lại thì nó sẽ phát âm giống như "ai", "i", "u" trong tiếng Việt. Ví dụ như "Cuba", "use", "this will stimulate you", "I'm feeling you", "very" và các từ khác. Một số trường hợp khác thì chúng ta có nếu mà phiên âm của nó là /jə/ thì mình cũng đọc thành "giờ" là thành "i" ngắn "giờ": "live near" thành "near", "hear", "year", "million", "opinion".
Đó là những phụ âm mà chúng ta cần phải biết trong tiếng Anh.
Hướng Dẫn Phát Âm Nguyên Âm (Vowels)
Bây giờ chúng ta sẽ tới với nguyên âm. Có rất nhiều nguyên âm thì giống hệt như trong tiếng Việt thôi, chẳng qua là cách viết của nó khác. Nguyên âm nào mà có dấu hai chấm như thế này thì mình sẽ đọc kéo dài nó ra.
/i:/: Ví dụ như trong từ "sheep", "see". Thay vì đọc là "ship", chúng ta đọc "sheep" trước và kết thúc bằng âm "p": "sheep".
/ɪ/: "i" ngắn. "i" ngắn này, về độ dài của nó thì đọc như chữ "i" như bình thường mà thôi. Nó thường sẽ xuất hiện ở giữa hoặc là ở cuối từ: "island", "happy". Các bạn thấy có dấu phẩy ở trong một cái phiên âm như thế này thì chúng ta sẽ đọc cái âm sau dấu phẩy như bình thường. Những âm nào mà nó không đứng ngay sau dấu phẩy thì chúng ta sẽ đọc thêm dấu huyền vào. Ở đây là một cái "happy", "happy".
/e/: Âm /e/ rất giống chữ "e" này thì âm /e/ này là "e" ngắn.
/ʊ/: Về độ dài thì có âm /i:/ này là dài nhất, /ɪ/ là bình thường, /e/ này là ngắn nhất. Đọc giống bình thường như trong tiếng Việt thôi: "bed". /b/ cộng /e/ cộng /d/ cuối: "bed", "head".
/æ/: Âm mà nó viết kết hợp giữa "a" và "e" này, nếu mà đọc đúng thì phải có đủ "a" và "e". Ví dụ như trong từ này, một từ rất là phổ biến như thế này và phiên âm của nó thì đúng là như thế này. Bình thường mọi người thì sẽ đọc cái từ này giống ở phiên âm của từ này, nhưng mà thực ra nếu mà đúng của nó thì âm này phải là sự kết hợp của "a" và "e". Tức là khi mà mình đọc ở đặt vào vị trí như thế này thì chúng ta sẽ có 2 âm là một là "ba" và hai là "be". "ba", "be" và đọc nhanh thành "bad", "bad". Khác hẳn với "bed", chỉ có "e", đây có thêm "a" vào giữa: "bad". Tương tự vậy: "hat", "hat", "ha", "he", "hat". Nó khác với "hét". Trong thực tế sử dụng thì cái âm "bad" này nó thường phát âm giống với cả "bed" này và tùy vào ngữ cảnh người ta sẽ biết được là bạn đang nói là "bad" này hay là "bed" này. Nếu mà ở trong Anh-Anh thì âm "a" trong từ "bad" này nó nghe nó sẽ rõ hơn: "bad". Nhưng mà trong Anh-Mỹ thì hai âm /e/ và âm /æ/ này thì nó giống hệt nhau. Nhìn chung là nếu mà bạn đều phát âm cả hai âm này đều là /e/ thì người bản xứ đều hiểu tùy vào ngữ cảnh.
/ɑ:/: "a" và dấu hai chấm là "a" dài: "arm", "father". Đây không đọc là "am", "am". Ở đây là "father".
/ʌ/: Khi mà có dấu hai chấm này thì chúng ta sẽ đọc nguyên âm dài ra một chút sau đó mới tới vào âm cuối: "fast" chứ không phải là "phát", "fast".
/ɒ/: "a" và chữ "c" mà viết lộn ngược lại như thế này thì chúng ta đọc là "o": "got", "watch", "what".
/ɔ:/: Số âm "c" viết lộn ngược cộng với dấu hai chấm tức là "o" kéo dài ra: "saw", "short", "door". Trước khi "saw", "short". Phân biệt với "shot", "short".
/ʊ/: Viết giống chữ "u" mà hơi cường điệu một chút thì nó đúng là "u" và phát âm của nó là ngắn hơn một chút.
/u:/: "u" hai chấm là "u" kéo dài, đọc "u" trước, kết thúc bằng "d" sau: "food", "shoe".
/ʊə/: "u" này thì đọc như bình thường thôi, thường thì nó sẽ xuất hiện ở giữa từ. Ví dụ ở đây chúng ta có /tʃ/ cộng với /ʊə/. /tʃ/ thì lúc nói ở trên khi mà chúng ta sẽ đọc là "trờ", "trờ" giống như trong "trà" nhẹ của mình vậy. "trờ", "u", "ờ". Và bây giờ là "u", "ờ" này là kết hợp lại chúng ta sẽ có cách đọc nhanh thành "chua". Và có dấu phẩy ở đây nên là "ác" thì mình chúng ta đọc như bình thường, hai âm còn lại chúng ta sẽ đọc thêm dấu huyền đấy: "actual", "actual". Tương tự vậy chúng ta có "visual". Âm số 3 này thì là âm "giờ" "trờ" nặng, "giờ" với "u" là "giu", "ờ" là "vờ". "visual", "visual". "vi" có dấu phẩy đằng trước là "vi" như bình thường, hai âm còn lại thì chúng ta thêm dấu huyền vào sau: "visual".
/ʌ/: Dấu mũi tên lên trên đọc là "á": "cup", "up", "much", "bus".
/ɜ:/: Âm "r", âm "from", bắt đầu thấy giống sự kết hợp giữa phụ âm và nguyên âm lại là chúng ta sẽ có được cách đọc đúng của một từ. Số 3 và dấu hai chấm này đọc là "ơ". Bản thân số 3 này là "ờ" là âm "ơ", có dấu hai chấm đằng sau là "ơ" kéo dài. "b" trước, "d" sau: "bird", "bơ", "bird". Và "nurse", khác hẳn với từ "nớt" ở Việt Nam thì rất nhiều bạn đọc từ này là "nớt" nhưng thực ra mà nói đúng là nó phải là "nurse". Đó là sự khác nhau giữa dài hơi và không dài hơi.
/ə/: Số 6 lộn ngược này lại là "ơ" và "ơ" luôn mà không dài hơi và nó xuất hiện như trong từ "ago". Bạn thấy nhá, "g" này và "g" này, "go". "g" nhưng mà "ơ" lại kết hợp "u". Bạn cứ thử đọc nhanh 2 nguyên âm này vào xem nó ra cái gì: "âu", "âu", "âu". Rất giống từ "âu" ở đâu trong tiếng Việt của mình vậy. "g" cộng "âu" thành "go". Vậy cả từ này đọc là "ago".
Dấu phẩy này đứng ngay trước cái âm "go", vì vậy "go" thì mình đọc như bình thường. Chữ nào mà không có dấu phẩy đứng ngay đằng trước, mình đọc tới thêm dấu huyền vào đó. Vì vậy chúng ta đọc thế này là "ago", "ago".
"never". Dấu phẩy đánh trước chữ "ne", vì vậy chúng ta đọc "ne" như bình thường và "ver" đọc dấu huyền xuống thành "vờ": "never", "never". Khi nào mà bạn thấy có chữ "r" và đóng mở ngoặc ở đây thì có nghĩa là có thể có âm "r" ở cuối hoặc có thể không, tùy vào xem đó là giọng Anh-Anh hay là Anh-Mỹ. Anh-Mỹ thì sẽ là "never", "never" và Anh-Anh sẽ là "never", "never".
/eɪ/: "e" và "i". Âm "e" và "i" này thì bạn có thể đọc nhanh thôi: "ei", "ei", "ei". Nghe giống như "ây", "ây", "ây" của tiếng Việt mình. Nó vậy, từ này chúng ta biết là "say", đọc là "s" thì "s-ei" là "say". "m" ở cuối thì làm như bình thường thôi: "same".
/aɪ/: "a" và "i", chúng ta đọc thành cả từ này là "high", "highs".
/seɪ/ vs /sez/: "say", "say". Với "say" này thì để ý một chút, nếu mà là "I say", "you say" thì là "say", nhưng mà khi chia "he", "she", "it" mà chia ở hiện tại đơn thì mình phát âm là "sez", "e", "sez" chứ không phải là "says".
/əʊ/: "o" hoặc là "o", "u" thì đều đọc là "âu". Cứ đọc nhanh thứ hai âm này xem: "âu", "âu", "âu". Giống giống như là "âu", "châu âu" ở trong tiếng Việt mình. Và chúng ta sẽ có "h-əʊ-m": "home". "m" cuối thành "mờ" là và chúng ta sẽ có "h-əʊ-m", "home", "home". Rất nhiều người đọc từ này thành "hôm", "hờ ôm hôm", vậy thì chúng ta mất hẳn chữ "u" ở giữa. Vậy nếu mà chúng ta có "u" của nó là "âu" và cả từ là "home", "home", đọc nghe khác hẳn. Tương tự vậy là "no", "no", "no".
/aɪ/: "a", "i", như trong tiếng Việt mình rồi. "a", "i" và "v", "five" là "phải", thêm chữ "v" cuối thành "five". Đừng quên chữ "v" nhá, đừng quên âm cuối.
/aʊ/: Tiếp theo "a" và "u". "a", "u" thì hơi đặc biệt một chút, trong tiếng Việt của mình thì "a" với "u" là "au", nhưng mà trong tiếng Anh thì nó đọc là "ao", "ao", "ao": "flower", "flower". Ở đây chúng ta có "fl" cộng với "ao" thì thành "flao", và "ờ" đằng sau. "flower". Dấu phẩy đằng trước nên chúng ta đọc "flao" giữ nguyên, còn "ờ" thì thêm dấu huyền vào: "flower". Còn tùy bạn có thể đọc âm "r" cuối thành "flower" hoặc là không có "r" thành "flower". "now", "now".
/ɔɪ/: "o" này thì bên trên chúng ta sẽ đã biết là "o" thì đọc giống là "o", vậy "o", "i" thì thành "oi", giống nhau trong tiếng Việt: "boy", "boy", "j-oi", "join", "n" ở cuối thành "n". Vậy cả từ đọc là "join", "join". Rất nhiều bạn ở Việt Nam thì hay đọc thiếu "n" cuối, vì vậy bạn các bạn ấy đọc từ này giống hệt như từ "boy" này. Và nếu mà bạn có đọc chữ "n" cuối thì nghe nó sẽ khác biệt hẳn: "join", "join".
/ɪə/: "i" và "ờ". Các bạn tự đọc nhanh thử thật nhanh 2 nguyên âm này xem: "ia", "ia", "ia", "ia". Nghe giống như "ia" kia đó. Vậy thì cả từ này đọc sẽ là "n-ia", và có âm "r" cuối nhá: "near", "near".
/eə/: Tương tự như là "e", "ờ" rồi "r". Chính vì vậy cả từ này đọc sẽ là "hair", "hair" và "hare", "hare". Trong văn nói và các bạn khi mà các bạn nghe người bản xứ phát âm, chắc chắn là các bạn hầu như không nghe được âm "r" của từ vì nó đọc rất là nhẹ: "he", "he". Giờ thì các bạn khi mà nghe người ta sẽ nói thì các bạn chỉ nghe được âm "e" là thôi, không nghe được âm "ờ".
/ʊə/: "u", "ơ", "r": "tour", "tour". Vậy giống "ua" của mình không rồi.
/jʊə/: Thì cả từ này thì đọc như thế nào ta? Thậm chí không cần nhìn vào cái từ viết như thế nào nhé, chúng ta nhìn vào phiên âm thôi. Trong từ này thì hơi đặc biệt một chút, bởi vì chữ "j" này thì đứng trước âm "u". Lúc nãy chúng ta đã có chú ý là chữ "j" này mà đứng trước âm "u" thì mình sẽ đọc thành "i" ngắn và "giờ". Thì cả từ này sẽ đọc là "y-ua", "yua". "r" cuối thành "r". Vậy cả từ này đọc là "your", "your".
/tʃʊə/: Tương tự ở đây chúng ta sẽ có "chua", "chua", "tourist".
Luyện Tập Với Các Từ Hay Phát Âm Sai
Rồi, vậy là chúng ta đã vượt qua một lượt những nguyên âm và phụ âm trong tiếng Anh. Giờ thì cùng thử ghép chúng lại để đọc một vài từ mà nhiều người hay phát âm nhầm nhé. Và nhớ, phiên âm có bao nhiêu âm thì mình phải phát âm đủ, không được thiếu âm.
Từ đầu tiên và cũng là từ mà nhiều người có thể không ngờ tới. Bình thường mọi người hay nói là "hello", nhưng phát âm đúng sẽ là gì? Phiên âm của nó đây, chúng ta có "hờ", "ờ" là "hơ", "l-əʊ" là "lâu". Đọc đúng phải là "həˈləʊ", "həˈləʊ", "həˈləʊ".
"about": Rất nhiều bạn quên mất âm /t/ ở cuối từ này và đọc thành "about", "about". Nếu mà bạn có đọc âm /t/ thì kể cả bạn không phát âm rõ ra thành âm "thờ", thì bạn cũng có thể biết được là bạn có đọc đúng hay không bằng việc là bạn xem xem là cái âm bạn phát ra là có bị chặn lại bởi âm /t/ hay không. Âm "thờ", "about", nó là có âm /t/ và mình biết là bạn có đọc đúng âm /t/. Nhưng mà nếu mà bạn không có gì ở cuối, "abao", nó nghe khác hẳn.
"feel": Một lần nữa thì bạn không phát âm đủ âm cuối và nhiều bạn phát âm thành "fiu" hoặc là "phiu". Nó là "feel", có "l" cuối.
"hand" và "time": Hai từ này thì nhiều bạn phát âm thành "hen" hoặc là "tam". Nhưng vào phiên âm thì bạn có thể thấy nó là "h-æ-n-d" và kết thúc bằng /d/: "hand". "t-aɪ-m": "time".
"heart" và "hurt": Nhiều bạn nhầm với từ "heart", nhưng mà phiên âm thì các bạn có thể thấy rõ sự khác biệt. Vậy các bạn thử đọc hai từ này xem khác nhau thế nào. Một từ thì đọc là "heart", một từ đọc là "hurt".
Đây, chắc các bạn cũng biết cách đọc phiên âm đấy, thì cùng đọc luôn những từ mà người Việt chúng ta hay phát âm sai nhé:
"comfortable" chứ không phải "comfortable".
"vegetable" chứ không phải "vegetable".
"island" chứ không phải "ai-len" hoặc là "ai-sờ-len".
"chocolate" chứ không phải "chô-cô-lát".
"stomach" chứ không phải "stomach".
Và còn rất nhiều từ khác mà các bạn có thể google với từ khóa "những từ hay phát âm sai" nhé.
Bí Quyết Để Nối Âm Tự Nhiên
Như vậy là chúng ta đã học xong phần phát âm. Vậy thì còn nối âm thì sao? Rất nhiều bạn khi muốn nối âm thì các bạn cố tình chú tâm tới từ nào phải nối với từ nào để rồi tạo ra tiếng nối âm nghe rất gượng gạo. Ví dụ như "I don't care about that", "they make it".
Để nối âm được tự nhiên thì bí quyết rất đơn giản là hãy phát âm đủ tất cả các âm của một từ. Một khi bạn làm được như vậy thì bạn sẽ tự động nối âm. Giống như trong tiếng Việt các bạn nói "em ơi" thì các bạn sẽ tự động nói âm "m" với "ơi" thành "em ơi". Và kiểu gì các bạn phát âm dù các bạn không cố nối âm đi chăng nữa, nhưng một khi các bạn nói từ "em" có đủ chữ "m" và đọc liền với từ "ơi" thì kiểu gì các bạn cũng sẽ ra từ "em ơi", "em ơi", "em ơi". Và các bạn làm điều này hết sức tự nhiên mà không cần để ý. Đó là bởi vì các bạn đang phát âm đủ âm "m" của "em", sau đó nối liền với từ "ơi".
Tiếng Anh cũng y làm như vậy. Mình khuyên các bạn nên chọn những bài hát có tiết tấu chậm, hát theo ca sĩ và phải phát âm đúng lời để tập nối âm. "Make You Feel My Love" của Adele và "Perfect" của Ed Sheeran là những bài như vậy.
Luyện Tập Nối Âm Qua Lời Bài Hát
Các bạn có thể cùng đọc với mình đoạn lyric này nhá. Chúng ta sẽ đọc từng từ trước để nắm rõ chúng có những âm gì. Đầu tiên là đọc chậm trước, sau đó đọc nhanh hơn.
Mình sẽ dịch đoạn này xem nó có ý nghĩa gì. Trong đây thì chỉ có mỗi cái idiom là đáng chú ý thôi. Idiom là "to be on someone's case", tức là không ngừng chỉ trích ai đó. Trái nghĩa của nó là "to be off someone's case". Đoạn lyric này có ý nghĩa là: "Khi những cơn mưa đang rơi xối xả vào mặt em, và cả thế giới thì không ngừng chỉ trích em, anh có thể cho em một cái ôm thật ấm áp để cho em cảm nhận được tình yêu của anh."
Chắc hẳn là các bạn đang nổi hết da gà lên và mình cũng thế. Dịch ra tiếng Việt thì nghe rất là sến. Nếu các bạn hiểu theo nghĩa tiếng Anh, ngẫm trong đầu, các bạn có thể thấy là lời của những bài hát thế này rất là đẹp. Không sến súa và câu từ cũng rất đơn giản, không hề khó chút nào.
Bây giờ chúng ta sẽ đọc chậm lại đoạn này trước nhé:
"When the rain is blowing in your face,
And the whole world is on your case,
I could offer you a warm embrace,
To make you feel my love."
Rồi, đọc chậm lại như vậy rồi, bây giờ chúng ta thử đọc nhanh câu này nhá:
"When the rain is blowing in your face, and the whole world is on your case, I could offer you a warm embrace to make you feel my love."
Nào, đấy là đọc hơi nhanh hơn một chút thôi. Còn bây giờ nếu mà đọc nhanh ở tốc độ bình thường mình, nhất là với tốc độ như hát của ca sĩ:
"When the rain is blowing in your face and the whole world is on your case, I could offer you a warm embrace to make you feel my love."
Làm nhanh thì là như vậy. Ví dụ như câu "I could offer you a warm embrace", nếu mà các bạn tua lại và các bạn để ý kỹ thì giữa âm "could" và âm "offer" là mình có nối âm. Nhưng mà mình không hoàn toàn cố tình đọc là "cút-đo-phờ" mà mình chỉ đọc là "cút-đo-phờ", đó là bởi vì là mình tính không hoàn toàn nghĩ tới việc nối âm mà mình chỉ nghĩ tới việc là đọc đúng âm "could", có âm /d/ cuối là "could", và đọc liền tiếp theo từ tiếp theo là "offer". Và tự dưng một khi mà mình đã đọc đủ âm của một từ và đọc tiếp từ tiếp theo thì nó ra âm gì thì nó tự ra như vậy.
Tương tự vậy, từ "warm embrace". Kết thúc bằng âm /m/ của chữ "warm", từ "in" của "embrace". Nếu mà bạn đọc đủ thì bạn sẽ nối âm giống như khi bạn đọc là "em ơi" vậy: "warm embrace", "warm embrace", "warm embrace". Đừng nghĩ tới việc nối âm. Nếu bạn nghĩ tới việc nối âm thì các bạn sẽ ngay lập tức đọc nặng cái phần nối âm lại thành "warm-em-brace". Tự dưng cái cách phát âm của mình nó khác hẳn đi. Chỉ cần nghĩ tới việc là đọc từ này mình đã đủ âm chưa, gồm từ tiếp theo là gì, "embrace", và cứ đọc như bình thường thôi, tốc độ bình thường, và nó ra âm gì thì nó tự ra âm như vậy.
Rất mong video này không làm các bạn bị quá tải. Các bạn không nhất thiết phải thuộc phiên âm ở ngay lập tức, giỏi phát âm ngay hôm nay. Bao giờ quên thì hãy cứ quay lại đây xem nhé. Rất mong video này đã tạo được động lực cho các bạn hôm nay khi đi tắm sẽ nghêu ngao hát một bài hát US-UK mà các bạn thích nhé. Còn bây giờ, xin chào và hẹn gặp lại